“Vì Đức Chúa Trời yêu-thương thế-gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài,
hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư-mất mà được sự sống đời." Giăng 3:16

Đồng Tính Luyến Ái có bị cấm trong Tân Ước không?




Đồng tính luyến ái bị định tội không những trong Cựu Ước, chỉ áp dụng cho người Do Thái mà còn đối với tất cả mọi người trong mọi thời đại. Rô-ma 1:21-27 và 1 Côr. 6:9-10 là hai trong số những phân đoạn trong Tân Ước lên án đồng tính luyến ái.

Lập luận của những người ủng hộ đồng tính: Rô-ma 1 không phải đề cập đến những người sinh ra là đồng tính nhưng lên án những người được sinh ra dành cho quan hệ tình dục dị tính, nhưng lại ham muốn và quan hệ đồng tính[19]. Nói cách khác, họ phân biệt hai nhóm đồng tính theo tự nhiên (sinh ra là dành cho quan hệ đồng tính) và nhóm đồng tính bất bình thường (sinh ra là dành cho quan hệ dị tính nhưng ham muốn giống đồng tính). Vì vậy, điều Rô-ma 1 lên án không dành cho những người đồng tính theo tự nhiên. Cũng có ý kiến cho rằng trong Rô-ma 1, Phao-lô đang nói về vấn đề thờ hình tượng, và thật ra cách sử dụng ngôn ngữ cho thấy đó là sự giả định về điều có thể xảy ra trong thời đó, chứ không chính xác mang hàm ý về vấn đề tình dục.[20]


Rô-ma 1:21-27 cho thấy lối sống đồng tính là một lựa chọn và đó là lựa chọn chống nghịch lại định của Chúa.


Cả tội thờ hình tượng và đồng tính luyến ái đều là tội trước mặt Chúa, cả hai đều đi ngược với hoạch định và ý muốn của Chúa dành cho con người. Điều này cũng đi ngược lại với sự thánh khiết mà Đức Chúa Trời muốn dân sự Ngài phải gìn giữ. Tuy nhiên, đồng tính luyến ái là một tội lỗi khác với tội thờ thần tượng. Sự định tội dành cho đồng tính luyến ái được phân biệt rõ ràng với tội thờ thần tượng trong Lê-vi Ký. Trong Mười Điều Răn, hai tội này cũng được phân biệt rõ ràng.[21]


Rô-ma 1:26-27 đề cập đến đồng tính luyến ái trong một bối cảnh văn hóa rộng. Dân ngoại được mô tả là những người chống lại Đức Chúa Trời, xu hướng về sự kiêu căng và ham muốn tình dục đáng xấu hổ của họ. Họ không theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời nhưng thay thế sự công bình của Đức Chúa Trời bằng sự không công bình và làm ô danh Chúa.


Phân đoạn này không thể là nền tảng ủng hộ đồng tính với lý luận rằng Phao-lô đang đề cập đến những người sinh ra với bản chất tình dục dị tính nhưng lại lầm lạc chọn làm điều đi ngược với tự nhiên, là đồng tính[22]. Kinh Thánh cho biết rõ ràng từ ban đầu khi Đức Chúa Trời tạo dựng con người, Ngài tạo nên người nam và người nữ. Và nhiệm vụ Đức Chúa Trời ban cho con người là phải sanh sản. Điều này chỉ thực thi được trong hôn nhân dị tính, không phải trong hôn nhân đồng tính. Thực chất, trong phân đoạn Kinh Thánh này, Phao-lô cho biết “những người đàn bà đã đổi cách dùng tự nhiên ra cách khác nghịch với tánh tự nhiên. Những người đàn ông cũng vậy, bỏ cách dùng tự nhiên của người đàn bà mà un đốt tình dục người nầy với kẻ kia, đàn ông cùng đàn ông phạm sự xấu hổ, và chính mình họ phải chịu báo ứng xứng với điều lầm lỗi của mình. Ở đây, Phao-lô đang mô tả quan hệ đồng tính nam và đồng tính nữ. Và điều này nghịch với tự nhiên. Sự trái tự nhiên này chỉ đến mối quan hệ tình dục sai lạc với trật tự mà Đức Chúa Trời đã tạo ra ngay từ lúc ban đầu trong công trình sáng tạo[23].


Lưu ý từ ngữ “đổi cách” và “bỏ cách” hàm ý tình dục đồng tính là một lựa chọn, chứ không phải là được sinh ra “cách tự nhiên”. Điều này hoàn toàn ngược lại với điều những người ủng hộ đồng tính lý luận rằng họ được sinh ra như thế và không có lựa chọn nào. Thực tế họ chọn và thực hành hành vi tội lỗi. Vì vậy, đây là hành vi sai trật trước mắt Chúa.


Lập luận của những người ủng hộ đồng tính: Tội lỗi đề cập trong 1 Cô. 1:9-11 áp dụng cho trường hợp cưỡng ép tình dục đối với người cùng giới khác mà không dựa trên tình yêu. Hay nói cách khác, không phải quan hệ đồng giới bị lên án, nhưng vấn đề là động cơ không xuất phát từ tình yêu tình nguyện đến với nhau[24].


Trong 1 Cô. 6:9 trong Kinh Thánh Hy Lạp (6:10 trong Kinh Thánh tiếng Việt), Phao-lô dùng từ malakoi (có nghĩa chỗ mềm mỏng, phần mềm để đụng chạm, sờ), và từ ἀρσενοκοῖται (arsenokoitai) (có nghĩa một người nam ở trên giường hay một người nằm với một người nam, cùng một từ được dùng trong 1 Tim. 1:10). Hai từ này rõ ràng chỉ đến quan hệ đồng tính. Trong những câu này, Phao-lô xác định ba loại quan hệ tình dục sai trái: tà dâm, ngoại tình, và đồng tính. Những người thực hiện những quan hệ tình dục sai trái này cùng với những tội lỗi khác liệt kê trong câu 9-10 bị loại trừ ra khỏi vương quốc của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng sự cứu rỗi và sự thánh hóa vẫn được dành cho những người được mô tả trong phân đoạn này. Đó chính là niềm hy vọng cho những người đồng tính. Không thể nói rằng một khi đã là đồng tính, người đó sẽ mãi mãi là người đồng tính. Họ có niềm hy vọng được biến đổi trong danh Chúa Giê-xu và trong Thánh Linh của Đức Chúa Trời.

TIN LÀNH CHO BẠN
Share on Google Plus

About Unknown

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Post a Comment